CHIA SẺ LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 4,3 VÀ 2 PHỤC SINH A 2017
CHIA SẺ LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH A 2017
Lời Chúa:Cv 2,14a.36-41 ; 1 Pr
2,20b-25 ; Ga 10,1-10
TIN MỪNG:
Ga 10,1-10 “…(1) “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào
ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ
cướp. (2) Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. (3) Người
giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh, anh gọi tên
từng con, rồi dẫn chúng ra. (4) Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước
và chiên đi theosau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. (5) Chúng
sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không
nhận biết tiếng người lạ. (6) Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn
đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ. (7)
Vậy, Đức Giê-su lại nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho
chiên ra vào. (8) Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên
đã không nghe họ. (9) Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu.
Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. (10) Kẻ trộm chỉ đến để
ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được
sống và sống dồi dào…”
+/Có
một cuốn sách viết rằng: một du khách đến Palestin, gặp được một người mục tử đang
làm việc tại một trại cừu.Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh vật biến ảo của
cánh rừng.Thấy thế, du khách hỏi : "Đó là trại cừu, kia là bầy cừu,
đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu ?".Người mục tử hỏi lại: "Cửa
hả?,Chính tôi là cửa,Ban đêm tôi nằm giữa lối đi này,Không một con cừu nào bước
ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi." .
-Đức
Giêsu trình bày chân dung mình: vừa là mục tử vừa là cửa ra vào.Những
biến cố vây quanh Đức Giêsu tại Giêrusalem vào dịp Lễ Lều, bắt đầu từ chương 7,
lại tiếp tục ở đây.Bản văn Đức Giêsu là cửa và vị Mục tử nhân lành hôm nay, là
bài diễn từ cuối cùng của Đức Giêsu trong thời gian hoạt động công khai; bài
này triển khai một đề tài là Đức Giêsu, chứ không phải là các nhà lãnh đạo
Do Thái giáo, mới là vị Mục tử đích thật.
-Chúng
ta cũng nên biết rằng ở xứ Palestina, người ta nuôi chiên rất đông. Ban đêm,
các mục tử dẫn các đàn chiên của mình vào một cái chuồng chung ở giữa đồng cỏ
và chia phiên nhau canh gác ở ngay cửa ra vào. Đến sáng, từng mục tử qua cửa để
vào chuồng và gọi tên các con chiên trong đàn mình. Chúng đã quen tiếng mục tử
nên đi theo ra khỏi chuồng đến những đồng cỏ. Những tên trộm cướp không dám qua
cửa vì sợ đụng người canh gác, nên phải trèo rào mà vào. Nhưng dù vậy, chiên
cũng không đến gần bọn họ vì chúng lạ họ. Nếu họ có đưa được con chiên nào ra
khỏi chuồng thì cũng không phải để nuôi dưỡng nhưng để giết ăn thịt.
-Qua
những câu này, Đức Giêsu muốn so sánh Ngài với các nhà lãnh đạo tôn giáo do
thái thời đó: họ không phải là mục tử thật,nhưng là những tên trộm cướp leo rào
vào chuồng, họ không chăm sóc cho chiên nhưng chỉ làm hại chiên ; chính
Đức Giêsu mới là mục tử thật và là cửa chuồng chiên.
+/Ý tứ của Đức Giêsu khi
nói dụ ngôn này là Qua dụ ngôn này, Chúa Giê su muốn cho các nhà lãnh đạo tôn giáo do thái thấy hai thái độ trái
nghịch nhau, giữa Ngài và họ trong cách đối xử với dân chúng hay các tín đồ tôn
giáo.
* Cách ứng xử của các nhà lãnh đạo tôn giáo do thái,Họ tỏ ra không có một
chút tình yêu, lòng thương xót hay sự cảm thông nào đối với những người mù lòa
bệnh tật được Đức Giêsu chữa lành. Trái lại, họ đã dùng lề luật để bắt bẻ vị ân
nhân đã chữa lành bệnh cho người ta, đồng thời gây khó dễ cho việc chữa bệnh.
Đối với dân chúng, họ không giống như người mục tử đích thực đối với đàn chiên,
mà giống như người chăn chiên thuê.
* Cách ứng xử của Đức
Giêsu:Đức Giêsu có một thái độ khác hẳn, một thái độ nhân từ đầy yêu thương đối
với mọi người, được thể hiện một cách cụ thể trong việc Ngài chữa lành bệnh tật
mù lòa. Ngài sống và hành động vì tình yêu chứ không vì lề luật. Tình yêu và
lòng thương xót của Ngài đã thúc bách Ngài bất chấp luật sa bát, bất chấp sự
phản đối và bực tức của người Pharisiêu về việc lỗi luật của Ngài, bất chấp
những hậu quả rất bất lợi có thể xảy đến cho Ngài. Ngài sẵn sàng hy sinh bản
thân để xoa dịu đau khổ, để làm mọi người hạnh phúc.
+/Qua dụ ngôn này, Đức
Giêsu muốn cho người Pharisiêu thấy thái độ của họ đối với dân chúng, với các
tín đồ tôn giáo mà họ dẫn dắt chẳng khác gì thái độ của kẻ trộm cướp, của kẻ
chăn thuê đối với đàn chiên: chỉ muốn lợi dụng đàn chiên chứ không hề yêu
thương chúng. Còn thái độ của Ngài mới là thái độ người mục tử đích thật: Ngài
yêu thương đàn chiên đến nỗi sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên.
Nhưng rất tiếc là họ không hiểu những điều Người nói với họ.
-Trích bài giảng của thánh
Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng “…anh em đã nghe đọc về mối
nguy luôn đe doạ chúng tôi là các mục tử, anh em cũng hãy dựa vào những lời của
Chúa mà đánh giá mối nguy đang đe doạ anh em. Hãy xem mình có phải là con chiên
của Chúa không, có biết Chúa không, có biết ánh sáng chân lý không. Tôi nói
“biết” không có nghĩa là “biết” nhờ đức tin, nhưng là “biết” nhờ đức mến. Tôi nói “biết” không có
nghĩa là “biết” được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là “biết” được diễn tả qua
việc làm.
…Người
còn nói về các con chiên : Chiên
tôi nghe tiếng tôi, tôi biết chúng, chúng đi theo tôi, và tôi ban cho chúng sự
sống đời đời.
Ở đoạn trên, Người nói về các con chiên : Tôi là cửa, ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người
ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ...Đồng cỏ của đoàn chiên đây là
gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn
niềm vui ? Quả thế, đồng cỏ của những người được chọn là chính thánh nhan Thiên
Chúa luôn hiện diện. Khi con người không ngừng chiêm ngưỡng Thánh Nhan, lòng
trí họ được thoả thuê mãi mãi nhờ lương thực ban sự sống.Anh em thân mến, vậy
ta hãy tìm kiếm đồng cỏ này, nơi đây ta sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao
công dân Nước Trời…”.
+/Ngày cầu nguyện cho ơn thiên
triệu:Hiện nay trên thế giới nhất là tại
các nước Âu Mỹ đang thiếu ơn gọi linh mục tu sĩ cách trầm trọng. Nhiều
nhà thờ không có linh mục coi sóc, nhiều tu viện to lớn bị bỏ hoang vì không
còn tu sĩ trẻ.Ở Việt Nam ta hiện đang dồi dào ơn thiên triệu(được gửi ra cả
ngoài nước để phục vụ).Nhưng nếu làm không khéo thì cũng sẽ dẫn đến tình
trạng tương tự như ở các nước Âu Mỹ nói trên.
-Nguyên nhân của tình trạng này rất nhiều.Nhưng có lẽ nguyên
nhân chính là do lỗi của mỗi người tín hữu chúng ta:Vì chưa ý thức
được tầm quan trọng của sứ vụ truyền giáo,nên chúng ta chưa thiết tha
nài xin Thiên Chúa sai thêm thợ gặt đến,chưa canh tân đời sống đủ để làm
chứng nhân tình thương của Chúa Giê-su trước mặt người đời; Các bậc cha mẹ
công giáo chưa quảng đại động viên hướng dẫn khuyến khích chúng đi tu làm
linh mục và tu sĩ để phục vụ Chúa và Hội Thánh hữu hiệu hơn.
-VÀ THÊM NHỮNG
KHÓ KHĂN THÁCH ĐỐ CỦA THỜI ĐẠI ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
VÀ SỨ VỤ CỦA LINH MỤC TU SỸ:Một Văn
hào/Giu-ăng A-ri-a (Juan Arias) viết: "Lạy Chúa, Linh mục là ai?
Đối với nhiều người: Ông ta là một người cô độc ích kỷ. Đối
với nhiều người khác: Ông ta là thứ trai già vô tích sự, một nhân
viên bàn giấy của tôn giáo". Người nghèo tỏ vẻ bực bội khi
thấy Linh mục hay tiếp xúc với người giàu có và rủa Linh mục là
"đồ tư bản chết tiệt!". Nếu linh mục hiến thân chuyên lo
phục vụ cho người nghèo ít học, bệnh tật, cô đơn... thì người ta lại
ganh ghét và gọi Linh mục là "Đồ tả khuynh bần tiện!".
-Làm
Linh mục thời đại ngày nay thật không đơn giản chút nào.Có một bài
báo nhỏ Có tựa đề:"MỘT NGƯỜI LUÔN LUÔN SAI LẦM"/(He is always
wrong),điều này nói lên sự cảm thông của các tín hữu đối với các Linh
mục chủ chăn như sau:
* Giảng ngắn dưới 10 phút: "Ông Linh mục này
lười không chịu dọn kỹ bài giảng!". Giảng quá 20
phút: "Ông ta là người ưa nói dai và nói dài!". Nếu
giảng hùng hồn: Ông ta la lối om sòm thật bất kính với
Chúa đang ngự trong nhà chầu.Nếu giảng với giọng bình thường:
"Ông ta có biệt tài dỗ ngủ cho người bệnh khó ngủ!".Nếu
năng đến thăm các gia đình trong giáo xứ: "Ông ta chẳng có
việc gì để làm, suốt ngày la cà hết nhà này sang nhà nọ để kiếm
chác! chẳng mấy khi thấy ông ta có mặt ở nhà để tiếp xúc với các
người cần gặp hay để đi kẻ liệt!".Nếu ít đi thăm: "Ông ta
chẳng quan tâm để biết con chiên của mình sống chết ra sao!".Nếu
linh mục còn trẻ: "Ông ta mới ra trường nên tay nghề còn non và
chưa có kinh nghiệm mục vụ!".Nếu đã cao niên: "Một lão già
lẩm cẩm hủ lậu! Ông ta nên sớm về hưu đi là vừa!".
-Thật đúng như người đời thường nói: "Ở sao cho
vừa lòng người: Ở rộng người cười ở hẹp người chê". Nên Linh mục
thật không dễ chút nào…Amen
............................................
Chia Sẻ Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh Năm A2017
Lời Chúa:Cv 2, 14. 22-28;1
Pr 1, 17-21; Lc 24, 13-35
Lc 24, 13-35: “…Cùng
ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách
Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa
xảy ra. Ðang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa
Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người.
Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã
vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành
hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong
thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa:
"Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên
tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể
dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử
tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người
sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ
nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng
sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo
rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự
đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".Bấy giờ
Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì
Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?"
Ðoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất
cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người
giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại
với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với
các ông.Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ
ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất.
Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi
Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay
lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác
đang tụ họp. Họ bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với
Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã
nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.Ðó là lời Chúa.
+/Có
một câu chuyện nhỏ về một nhà sư Phật giáo khi sắp chết, đã yêu cầu một vị linh
mục Công giáo hướng dẫn ông về những chân lý đức tin. Và vị linh mục này làm
hết sức mình để thỏa mãn những mong ước của nhà sư.Sau đó, nhà sư này cám ơn vị
linh mục, nhưng ông còn nói them rằng:"Ông đã đem đến cho tâm trí tôi đầy
những tư tưởng hay đẹp, nhưng ông vẫn để cho tâm hồn tôi còn trống rỗng…".
-Câu
chuyện về cuộc hành trình của hai môn đệ đi về thành Emmau không thể không nói đến
Đức Giêsu.Khi còn đang trên đường đi, tâm hồn họ lạnh lẽo và trống trải,nặng
trĩu ưu phiền, bị thương tích vì nỗi thất vọng,và tê liệt do nỗi đau khổ thầy mình
đã chết.Cái chết của Người, và đặc biệt là cách thức Người chết, đã làm cho
niềm hy vọng nơi họ bị tiêu tan.Vì Một Đấng Mêsia bị sỉ nhục, chịu đóng đinh!
Đó là một điều không thể được, thật không thể hiểu nổi.
-Nhưng
Đức Giêsu Phục Sinh đã cùng đi với họ, và Người mở tâm trí họ để hiểu về một
Đấng Mêsia chịu đau khổ.Nhờ đó,ánh sáng và hơi ấm bắt đầu thấm nhập vào tinh thần
tăm tối và lạnh lẽo của họ.Đến bữa ăn tối, khi Người tự mặc khải chính Người,
họ đã được biến đổi quá nhiều, đến nỗi họ quay trở lại Giêrusalem ngay tức
khắc.Ngay cả mặc dù bóng đêm tối tăm, nhưng trái tim của họ vẫn bừng sáng.Ngay
cả cho dù đôi chân của họ còn nặng nề, nhưng trái tim của họ vẫn nhẹ nhỏm.
-Dựa
vào nghi thức bẻ bánh, các môn đệ đã nhận ra người đồng hành trên đường là chính
thầy của mình.Nghi thức này là khởi đầu của việc cử hành Bí Tích Thánh Thể.Sự
kiện bẻ bánh rất quan trọng,nó đặt nền tảng cho niềm tin qua mọi thời đại.Và Giáo
hội đã duy trì, sắp đặt và chính thức hóa nghi thức này,qua việc cử hành Bí
Tích Thánh Thể trong thánh lễ.Vào thời Giáo hội sơ khai,nghi thức bẻ bánh trở
thành dấu chỉ và trung tâm của mọi cuộc tụ họp cầu nguyện của các tín hữu.
-Sách
Tông Đồ Công Vụ cũng đã tường thuật biến cố Chúa Giêsu chịu chết theo dự định
của Thiên Chúa,và có cả trách nhiệm của người Do Thái.Theo như Thiên Chúa đã
định và biết trước,Đức Giêsu đã bị nộp và người Do Thái đã dùng tay những kẻ
độc ác mà hành hạ rồi giết đi.Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ đã qui lỗi sự thông
đồng của những người sát hại Chúa.Nhiều người đã đồng ý giơ tay xin tha kẻ cướp
và giết chết Đấng Thánh của Thiên Chúa.
-Thánh
Phêrô trong trích thư thứ nhất(1Petr 1, 19)đã mời gọi mọi người hãy tin tưởng
vào Chúa Kitô sống lại.Giá máu châu báu/bửu huyết của Người sẽ cứu thoát linh
hồn chúng ta:Anh em đã được cứu chuộc bằng máu châu báu của Đức Kitô,Con Chiên
tinh tuyền, không tì ố.
+/Hôm
nay thánh Luca muốn nói với chúng ta rằng,có thể Ta không thấy Chúa Kitô về mặt
thể lý tự nhiên, nhưng ta có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh
Thể.
-Về mặt
tín lý chi tiết này rất quan trọng, để cho ta hiểu rõ hơn về Bí Tích Thánh Thể.
Khi ta cử hành Bí Tích Thánh Thể,cũng có nghĩa là ta cùng với Hội Thánh cầm lấy
tấm bánh bẻ ra và trao cho nhau.
-Hơn
thế nữa,Sự hiện diện của Chúa Phục Sinh là một hiện diện bao trùm cuộc sống của
chúng ta.Ta đón nhận sự hiện diện đó bằng lòng tin của chúng ta.Cho nên ta vẫn
có thể gặp được Chúa Phục Sinh, khi ta cử hành Bí Tích Thánh Thể:Cầm bánh,tạ ơn,
bẻ ra và trao cho nhau.Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể
như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh không,hay chỉ còn là một nghi thức?
-Đức
Giêsu Phục Sinh đã soi sáng tâm trí các môn đệ,Nhưng Người còn làm một điều tốt
đẹp hơn nữa.Đó là đức tin.Đức tin liên quan đến trí tuệ, đến nỗi tác động đến
các chân lý, giáo điều, học thuyết, lòng tin, giáo lý.Nhưng đức tin thậm chí
còn liên quan nhiều hơn đến tâm hồn.Đức tin cốt yếu hệ tại ở tương quan tình yêu
với Thiên Chúa,Đấng đã yêu thương chúng ta trước.Nếu không có tình yêu,thì đức
tin giống như một lò sưởi mà không có lửa.
-Điều
chính yếu đã đến với hai môn đệ trên đường Emmau,đó là niềm tin rằng Đức Giêsu
yêu thương họ.Chính niềm tin này làm cho tâm hồn họ bùng cháy lên.Câu chuyện
trên chứng tỏ lòng từ ái của Thiên Chúa,Đấng làm cho những ước mơ sâu thẳm nhất
nơi chúng ta trở thành hiện thực,bằng một cách thức đáng kinh ngạc nhất.
-Và câu
chuyện trên cũng cho chúng ta biết Đức Giêsu là đấng luôn song hành với con
người, hiện diện bên cạnh họ,và lắng nghe họ,qua mọi thời đại,cũng như thời đại
ngày nay.
-Trong
trình thuật của thánh sử Luca,ngài chỉ giới thiệu cho chúng ta một nhân vật có tên
là Lê-o-pha,và một người khuyết danh.Và Người khuyết danh đó phải chăng là mỗi
tín hữu chúng ta?.Có thể là chính chúng ta cũng có lúc đang đi trên đường
Emmau.Nghĩa là Đoạn đường đời tiến về nhà cha của ta có quá nhiều chán chường,đầy
bất trắc dồn dập xảy đến.Như Ốm đau, bệnh tật, làm ăn thua lỗ…luôn làm chúng ta
chưa hết cái lo này đến cái lo khác.Khiến chúng ta thất vọng,Muốn buông xuôi,Mặc
cho dòng đời đưa đẩy.
-Thánh
Luca muốn ghi lại biến cố này để mời gọi những ai sầu khổ tư bề,hãy biết nhìn mọi
biến cố trong đời bằng ánh sáng Tin Mừng.
-Như Khi
chúng ta thường đối diện với những lo lắng khổ đau,Khi chúng ta rơi vào sự thất
vọng vì buồn sầu, bệnh hoạn, thiên tai, động đất,sạt lở, sóng thần, bão tố,
chiến tranh,loạn lạc và tai nạn giao thông xe cộ,tầu bè và máy bay.Hãy tin
tưởng vào Chúa.Ngài luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho cuộc đời chúng ta.Vì
Chúa là người Cha nhân hiền sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái của mình,hay ban
cho con cái mình của chẳng tốt chẳng lành.
-Ước gì
trong thánh lễ hôm nay,chúng ta được nghe Lời Chúa,được hiểu Lời Chúa,nhời đó
mà được hiệp thông với Chúa và với nhau qua bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng
được sự bình an và niềm vui và sự dấn thân hơn nữa trong giáo hội và xã hội,như
hai môn đệ đi làng Emmau năm xưa-Amen.
..............................................
CHIA SẺ LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH NĂM A 2017
Lời Chúa:Cv
2,42-47; 1 Pr 1,3-9; Ga 20,19-31
Ga 20, 19-31: “…Vào buổi
chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì
sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng:
"Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và
cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại
phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy
cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông:
"Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy
được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong
Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa
Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem
thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không
nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu
tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin". Tám
ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi
các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho
các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và
hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng
lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa
của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên
con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". Chúa
Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép
trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa
Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người…”-
Đó là lời Chúa.
+/Có lần người ta hỏi đại thi hào
DANTE của nước Italia rằng: đâu là điều mà ông mong mỏi và tìm kiếm nhất trong
cuộc sống? Bậc vĩ nhân đã trả lời như sau: “Tôi
vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm: đó là sự bình an”.Đó cũng là điều mà chúng ta vẫn cầu xin cho những người quá cố,thường ghi
trên bia mộ:xin cho họ được an nghỉ ngàn thu/requiescat
in pace.
+/Có Một
vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự
bình an.Nhiều họa sĩ đã cố công thực hiện.Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh
nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.Một bức tranh vẽ hồ nước
yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ,vì có những ngọn núi cao chót vót
bao quanh.Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng.Tất cả
những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là bức tranh bình
yên thật hòan hảo.Bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những
ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa
như trút kèm theo sấm chớp.Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi
bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào.Nhưng khi nhà
vua ngắm nhìn, ông thấy đàng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe
nứt của một tảng đá. Trong bụi cây, một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó, giữa
dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang an nhiên đậu trên tổ
của mình.Và Nhà vua công bố:“Ta chấm bức tranh này”.
-Qua Tin Mừng Hôm nay Chúa hiện ra chúc Bình an cho các môn đệ,để các ông
vững mạnh đi rao giảng Tin mừng.Và để Chính các
ông sẽ là chứng nhân của việc Chúa sống lại.
-Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh
Gioan thuật cho chúng ta biết hai lần hiện ra của Chúa Giêsu.Lần thứ nhất là
ngay chiều phục sinh và lần thứ hai là sau đó tám ngày.Mặc dù bà Maria Madalena
đã báo cho các tông đồ biết rằng Chúa đã sống lại,và đã hiện
ra với bà, nhưng hầu hết các ông không tin.Nên Chúa Giêsu phải hiện ra trước
mặt các ông để các ông tin rằng Ngài đã sống lại như lời ngài đã báo trước.
-Tin mừng Chúa Nhật II Phục Sinh hôm nay cũng đề cập đến đức
tin của cộng đoàn môn đệ, và sự cứng tin của thánh Tô-ma, tiêu biểu cho đức tin
thực nghiệm của con người ngày nay.Và ta cùng nhau tìm hiểu mấy điểm như sau:
1)Tiến trình đức tin của cộng đoàn
môn đệ vào mầu nhiệm Chúa phục sinh:
-Sau khi Đức Giê-su chết và được an táng trong mồ, các môn
đệ của Người tập trung tại nhà Tiệc Ly,và
vào buổi chiều ngày Thứ Nhất trong tuần, họ đã được Chúa Phục Sinh hiện đến
đứng giữa họ đang khi cửa nhà vẫn đóng kín vì sợ người Do thái. Họ rất vui
mừng được nhìn thấy Chúa.
-Sau lời chào chúc bình an,Chúa cho các ông
xem tay và cạnh sườn Người. Rồi Người sai các ông tiếp tục sứ mạng
Thiên Sai, và ban Thánh Thần để các ông thi hành sứ mạng tha tội cho mọi người.Sau
đó các môn đệ đã báo tin cho thánh Tô-ma, người duy nhất trong nhóm vắng mặt
khi Chúa Phục Sinh hiện ra.Nhưng ông Tô-ma không dễ dàng tin Thầy mình đã sống
lại.Ông đòi phải được gặp Chúa và chỉ chấp nhận tin Chúa sống lại sau khi đã
được “mắt thấy tay sờ” các dấu đinh.
2) Lượng giá về đức tin thực
nghiệm của ông Tô-ma:
-Ngày
nay con người đã bước vào kỷ nguyên mới của khoa học kỹ thuật,kỷ nguyên của công nghệ cao,và chịu ảnh hưởng tinh thần khoa
học thực nghiệm.Họ luôn đặt dấu hỏi và hoài nghi mọi sự.Họ chỉ tin nhận sau khi
đã tìm hiểu qua các bước như:Một là quan sát sự kiện và nêu giả
thuyết. Hai là làm thí nghiệm để kiểm chứng giá trị giả thuyết. Sau
cùng đề ra quy luật phổ quát để giải thích mọi trường hợp khác tương tự.
-Sự cứng tin của thánh Tô-ma hôm nay phù hợp với lối suy tư
khoa học thực nghiệm của con người thời nay.Nên việc
một người tín hữu sống tốt và ăn nói trung thực, nhưng lại có vốn hiểu biết hạn
hẹp về giáo lý,kinh thánh và huấn quyền,thì hay bị kẻ
khác lường gạt.Sẽ không đủ uy tín để rao giảng đức tin và mời gọi người khác
tin theo Chúa.
-Để chu toàn được sứ vụ làm chứng cho Chúa trong xã
hội hôm nay, noi gương đức tin sáng suốt của thánh Tô-ma,chúng ta cần tin vào
Chúa Phục Sinh, dựa vào Lời Chúa, vào hướng dẫn của Hội Thánh. Rồi còn phải đào
sâu học hỏi về giáo lý và Thánh kinh, cần áp dụng các kiến thức khoa học cơ bản
trong việc lý luận và trình bày các mầu nhiệm đức tin một cách có hệ thống và
chặt chẽ để dễ hiểu và dễ tin hơn.
3) Cần canh tân việc loan truyền
đức tin cho con người thời nay:
Từ trước đến nay, người giáo dân dễ tin vào các linh mục, tu
sĩ, hoặc cha mẹ, thầy cô giáo lý viên.Khi học giáo lý, trẻ em dễ dàng tin
vào những chân lý đức tin của Hội Thánh dạy mà không thắc mắc gì nhiều.Nhưng
ngày nay và cho đến các thế hệ sau này,con người sẽ có sự đòi hỏi nhiều hơn khi
nghe giảng dạy các mầu nhiệm đức tin,để có thể tin.Nên Cần phải “nói có
sách, mách có chứng”.Nếu không chứng minh bằng những sự kiện trong thực tế, thì
ít nhất cũng phải chứng minh sự đáng tin của các điều ta rao giảng.
-Phải
trình bày đức tin cách khoa học hợp tình hợp lý,có bằng chứng Thánh Kinh.Cần
chú trọng đến những bằng chứng xác thực, lý luận chặt chẽ để giúp người nghe dễ
dàng đón nhận chân lý.Mặc Dù đức tin là do ơn Chúa ban, nhưng nếu muốn cho việc
rao giảng đức tin được nhiều người thời nay đón nhận, thì đòi người rao giảng
phải sống đức tin trước, và phải canh tân phương cách rao giảng kết hiệp với ơn
phù trợ của Chúa Thánh Thần.
4) Cần rao giảng đức tin bằng việc làm đi đôi với lời
nói:Đức Thánh Cha
Phaolô VI đã để lại cho chúng ta một phương châm thực hành(Trong Thông
điệp Evangelii nuntiandi số 41) như sau:“Người thời nay sẵn sàng nghe
những chứng nhân hơn là thầy dạy, và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là
chứng nhân”.
-Con người thời nay đòi hỏi những bằng chứng cụ thể mới
tin.Do đó, người rao giảng cần phải chứng tỏ điều mình rao giảng, trước hết
bằng chính cuộc sống của mình. Đức tin không phải chỉ là tuyên xưng các tín
điều Hội Thánh dạy khi đọc kinh tin kính mà thôi.Nhưng
còn là xác tín Đức Giê-su chính là “Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa”, là “con
đường, sự thật và sự sống”.Để sẵn sàng tín thác,cậy trông và
sống chết cho Người.
-Để
Lời Chúa chiếu soi vào cách suy nghĩ, nói năng và ứng xử của chúng ta,ta phải Luôn
sống kết hiệp với Chúa như cành nho tháp nhập vào cây nho, và hút nhựa sống là
ơn sủng qua việc dự lễ và rước lễ mỗi ngày.Nhờ
đó cuộc sống của chúng ta sẽ ngày một đổi mới nên tốt hơn, ứng xử công bình
nhân ái hơn, và sẽ sống trong bình an hạnh phúc hơn. Nhờ đó, việc loan báo
Tin Mừng của chúng ta sẽ được người khác lắng nghe, và là
bước đầu giúp họ đón nhận đức tin để được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa.
-Chúa nhật thứ hai Phục Sinh này còn là để tôn vinh lòng
thương xót Chúa.Cho dù, con người chối Chúa, bán Chúa, bỏ Chúa, giết
Chúa.Thế nhưng khi Chúa trở lại trong vinh quang,Ngài xét xử chúng ta bằng
những bản án được viết trên cát.Nghĩa là chỉ cần
một cơn gió nhẹ thì cát bay đi và bản án đã bị xóa nhòa.
-Khi Chúa phục sinh trở lại gặp các môn đệ, Ngài không
có bất cứ lời trách móc, kể tội nào, nhưng Chúa quên hết tội của các môn
đệ bằng một câu chúc:Bình an cho anh em.Câu
này còn có nghĩa rằng: Thầy không hề biết,
không hề ghi nhớ, không hề trách phạt tội ai,nhưng chỉ một lòng thương yêu tha
thứ.Chính điều này là sự bình an mà Chúa mang đến cho chúng ta
nhân ngày Chúa phục sinh.Và cũng nhắc chúng
ta hãy mau mau đem bình an đến cho anh em mình.
-Ngày nay chúng ta, những Kitô hữu không thấy Chúa Phục
Sinh như các tông đồ, như các người phụ nữ đạo đức xưa, nhưng ta vẫn tin Chúa
Phục Sinh nhờ đức tin. Người Kitô hữu không thấy Chúa bằng xương bằng thịt,
bằng giác quan, nhưng bằng lý trí và trái tim nhạy cảm của mình.
-Henry Fable, nhà sinh vật người Pháp sau bao nhiêu năm
nghiên cứu khoa học, khảo sát và suy tư đã phải thốt lên:'...Tôi đã trông
thấy Chúa ".Cha Michel Quoist viết thế này:"Tin Chúa, không
phải là hướng mắt về Người để chiêm ngưỡng,nhưng đồng thời cũng là nhìn vào
trần gian với ánh mắt của Đức Kitô ".
-Người Kitô hữu có thể dùng tặng phẩm
tuyệt vời Chúa ban là lý trí và tấm lòng yêu mến để xác quyết điều Kinh Thánh
đã truyền dạy. Rồi cũng quì gối xuống như thánh Tôma đã làm và thưa với Chúa
Phục Sinh:"Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con ".Và chắc chắn Chúa
Phục Sinh sẽ đáp lại:"Phúc cho những ai không thấy mà tin ".Amen
Nhận xét