CHIA SẺ LỜI CHÚA CN34TNC LỄ CHÚA KITÔ VUA NĂM 2013
CHIA SẺ LỜI CHÚA
CN34TNC LỄ CHÚA KITÔ VUA NĂM 2013
Lời
Chúa: 2Sm 5, 1-3; Cl. 1, 12-20; Lc. 23, 35-43
…Sau
khi Chiến tranh Thế giới thứ Nhất chấm dứt, cả châu âu rơi vào cảnh hoang tàn đổ
nát. Nước Balan cũng không tránh khỏi thảm hoạ này. Đất nước bị quân Đức và Nga
thay nhau cày xéo. Bao thanh niên ngã gục trên chiến trường. Nhiều làng mạc,
thành phố bị bom đạn thiêu rụi.
Trước
tình hình đó, Toà thánh muốn tìm một giáo sĩ xứng hợp, có thể đảm trách vai trò
đặc sứ tại quốc gia này. Linh mục Ambrose Ratti người Ý đã được đề cử và tuyển
chọn. Ngay sau đó, cha Ambrose lên đường đi nhận nhiệm sở mới với bao sứ mạng nặng
nề vất vả.
Thế
nhưng công việc của cha Ambrose tại Balan đã tiến triển tốt đẹp,và Toà thánh nhận
ra điều đó. Rồi chẳng bao lâu sau, ngài được triệu về Rôma và được tấn phong Hồng
y coi sóc tổng giáo phận Milan. Đến năm 1922, sau khi Đức Benêđictô XV qua đời,
Hồng y Ambrose Ratti được bầu làm Giáo hoàng với danh hiệu Piô XI.Năm 1925, Đức
Thánh Cha Piô đã thiết lập ngày lễ Chúa Giêsu Vua, đồng thời ban sắc lệnh truyền
dạy Dân Chúa khắp nơi mừng lễ này vào Chúa nhật cuối cùng của tháng Mười. Và Trong
một bản tông huấn, Đức Thánh Cha cho biết lý do ngài thiết lập ngày lễ Chúa
Kitô Vua là: thế giới cần một nền hoà bình chân thật, nhưng hoà bình đó chỉ có
được dưới triều đại của Đức Kitô là Vua Tình Thương và là Hoàng Tử Bình An.
Về
sau, khi có cuộc cải cách phụng vụ, một số ngày lễ được thay đổi, một số khác
không còn lưu lại trong lịch. Riêng lễ Chúa Kitô Vua được dời qua Chúa nhật cuối
cùng của năm phụng vụ, tức Chúa nhật thứ 34 này, trước khi bước vào mùa Vọng,
khởi đầu một chu kỳ năm phụng vụ mới.
Một
linh mục đã nhận xét: Suy tôn Chúa Giêsu Vua là việc làm hoàn toàn chính đáng
và mang nhiều ý nghĩa, vì quả thực, Ngài đã chào đời như một quân vương và lìa
đời như một đức vua.
Thói
thường khi quân Rôma đóng đinh ai cũng đều kèm theo một tấm bảng ghi rõ tội
danh của kẻ phạm pháp. Riêng trường hợp Đức Giêsu, quan Philatô muốn chế nhạo
người Do thái bằng cách cho treo trên đầu Ngài tấm bảng có hàng chữ “Đây là Vua
Dân Do thái”. Việc làm này đã vô tình khẳng định tính cách vô tội và vương quyền
thực sự của Đức Giêsu: Ngài không có tội để ghi và Ngài chính là hoàng đế...
Chính
Việc làm vô tình của Philatô lại được một tên tội phạm nhận biết và tuyên
xưng.Số là trên đồi Gôlgotha lúc bấy giờ có hai tên trộm cướp cùng chịu đóng
đinh với Đức Giêsu. Các thủ lãnh và đoàn thể dân chúng cười nhạo Ngài. Quân
lính thì mắng nhiếc chế diễu. Cả một trong hai tên gian phi cũng khiêu khích sỉ
nhục. Trong mớ âm thanh hỗn độn, hằn học, và thù nghịch ấy lại dội lên một vài
ngôn từ đáng suy nghĩ.
Ngay
trên khổ giá của mình, người gian phi thứ hai đã quan sát Đức Giêsu và suy nghĩ
về những ngôn từ đó. Anh ta thấy trong bao lời trách mắng về Ngài đều hở ra những
câu như: “Nếu là Đức Kitô”, “Nếu là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Nếu là Vua Do
thái”. Anh ta ngước nhìn và đợi chờ những lời nguyền rủa đáp trả hay những tia
nhìn hận thù giáng xuống đoàn lũ dưới kia. Thế nhưng, những gì anh thấy được lại
là “Đức Giêsu ngước mắt lên trời”, và những gì anh nghe được lại là “Lạy Cha
xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”.
Chính
việc “thấy” và “nghe” này đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân
thành. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là
đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại,
dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt
mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó vẫn toát lên
tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên tiếng bênh vực
cho Ngài: “Ông này đâu có làm gì sai trái”. Và xa hơn, anh còn khám phá ra
vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài xin: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi,
khi Ngài đến trong Nước của Ngài”.
Làm
sao trong cảnh hấp hối tột cùng của Đức Giêsu và của chính mình mà anh “trộm
lành” lại cất lên được lời thỉnh cầu như thế? Phải chăng khi rơi vào vòng xoáy
của sự chết, anh đã cố bám víu bất cứ thứ gì có thể bám được? Điều gì đã giúp
anh, ngay giữa lằn ranh của sự sống và sự chết, gặp thấy dung mạo của một quốc
vương, Đấng đang bước vào vương quốc của mình ngay trên thập giá?
Một
nhà thần học trả lời: tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Chính lòng
yêu người, xót thương cho kẻ bị oan ức, đã giúp anh gặp gỡ Vua Tình Yêu.
Mà
tình yêu sẽ tồn tại muôn đời, anh xác tín như thế. Cho nên, dù vật vã với đớn
đau của thân xác, anh vẫn nhận ra tình yêu đang hiện hữu bên mình. Tình yêu đó
đang rộng lòng tha thứ, xoá tan hận thù, và mang lại bình an. Niềm xác tín gia
tăng cường độ khiến miệng anh bật lên lời nài van: “Xin Ngài nhớ đến tôi”.
“Ngày
hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. Không lời nào yên ủi cho người sắp
chết bằng lời đó. Hận thù đã gây nên chiến tranh, phân ly. Nhưng tình thương lại
luôn bắt cầu liên kết. Anh trộm lành chỉ xin Chúa Giêsu nhớ đến mình, nhưng
Ngài lại hứa ở cùng anh. Và khi “ở làm một với nhau” thì tình yêu đã thật sự
lên ngôi. Trong tình yêu của Thiên Chúa luôn là “nên một” và “ở cùng”.
Trên
thánh giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi. Ngài bộc bạch chính mình là Đấng Cứu Thế,
Vua Tình yêu…Suy tôn Chúa Giêsu là Vua Yêu thương, CT nài xin Ngài “nhớ” đến CT
trên mọi hành trình ơn gọi trên dương thế,biết can đảm sống và bênh vực cho
chân lý tình yêu và sự thật, là ta đang là công dân của ngài và tìm thấy hoà
bình và sự sống phong phú nơi tâm hồn, gia đình, cộng đoàn và thế giới hôm nay.Amen
Nhận xét